Chú thích Nam_Kỳ_Lục_tỉnh

  1. 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 Petit cours de Géographie de la Basse-Cochinchine / P.-J.-B. Trương Vĩnh Ký (1875).
  2. Đại Nam Nhất Thống Chí. Tập V. Phạm Trọng Điềm dịch. Đào Duy Anh hiệu đính (Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1992, trang 122, 133, 200, 201). Tuy nhiên, sử Nguyễn là Quốc triều sử toát yếu (tr. 205) và Nguyễn Đình Đầu ("Địa lý lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh", trong Đại chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (tập 1). Nhà xuất bản TP. HCM, 1987, tr. 209) đều cho rằng: "Tháng 5 (âm lịch) năm Quý Tỵ (1833), Lê Văn Khôi khởi binh chiếm thành Phiên An. Tháng 8 (âm lịch) năm đó, vua Minh Mạng cho đổi tỉnh Phiên An thành tỉnh Gia Định".
  3. Năm khởi soạn ghi theo Từ điển Bách khoa Việt Nam (tập 1, tr. 718). Lời giới thiệu (sách đã dẫn, tr. 604) ghi là Giáp Tý (1864).
  4. Viện Sử học, Đại Nam nhất thống chí, Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2006. Tập I, Tr. 10.
  5. Bulletin de la Société des Études Indochinoises (Nouvelle série, Tome XX). Sài Gòn: 1945, p. 16.
  6. Annuaire de la Cochinchine Française, năm 1871, tr. 126
  7. La Cochinchine francaise 1873, J.P. Salenave, trang 9: Avril 1870-Délimitation des frontières de la Cochinchine Française et du Cambodge.
  8. Les frontières du Vietnam: Histoire des frontières de la péninsule indochinoise: Frontiére du Royaume de Cambodge de Khmere de la Basse CochinChine, Pierre-Bernard Lafont, trang 164.
  9. Các hiệp định biên giới Việt Nam – Campuchia thời Pháp thuộc và vấn đề cơ sở chính trị - pháp lý của đường biên giới Việt Nam – Campuchia, cổng điện tử Cà Mau, Nguyễn Sỹ Tuấn đăng ngày 01/10/2014.
  10. 1 2 Sơn Nam, Miền Nam Đầu Thế Kỷ XX: Thiên Địa Hội Và Cuộc Minh Tân. 1971, tr. 99.
  11. Theo Bulletin de la Société des Études Indochinoises (Nouvelle série, Tome XX). Sài Gòn: 1945, p. 16-35; và theo Nguyễn Đình Đầu, "Địa Bàn Thành phố Qua Các Thời Kỳ", in trong Địa Chí Văn Hóa Tp.HCM. Nhà xuất bản Tp.HCM, 1988, tr. 485-486. Theo Đào Văn Hội, Lịch Trình Hành Chánh Nam Phần. Sài Gòn: 1961, Chương IV, tham biện là inspection; viên chức trông coi inspection gọi là inspecteur. Về tên tham biện (administrateur), xem Paulus Huỳnh Tịnh Của, Sách Quan Chế. Sài Gòn: Bản in Nhà nước, 1888, tr. 15.
  12. Sau này, ngày 11 tháng 5 năm 1944, Pháp lập tỉnh thứ 22 là Tân Bình, gồm một phần tỉnh Gia ĐịnhChợ Lớn nhập lại.
  13. Để tham khảo, sau đây là cách giải thích của Nguyễn Đình Đầu ("Thay lời giới thiệu", in trong: Pierre Pegneaux de Béhaine Bá Đa Lộc Bỉ Nhu, Tự Vị An Nam La Tinh. Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch và giới thiệu. Nhà xuất bản Trẻ, 1999, tr: 5-6.): "Chúng ta có thể tóm tắt: địa danh COCINCINA chia ra làm hai phần COCIN và CINA. Cocin nguyên trước là Co Ci, do phiên âm hai tiếng Giao Chỉ mà thành (vì thế Tự Vị An Nam La Tinh mới dịch Người Giao Chỉ là Cocincinenses). Còn Cina thì bởi âm Sin hay Ts’inn và người mình đọc là Tần mà ra. Bên Ấn Độ có một thành phố tên COCHIN, sợ lẫn với Cochi hay Cochin, nên phải ghi rõ "Giao Chỉ (gần) Tần" và chữ Latinh ghi thành COCINCINA (mà người Nhật hay Trung Hoa ghi ra Giao Chỉ Chi Na). Trên các bản đồ Tây phương vẽ Đông Nam Á, từ trước cho tới thế kỷ 17, đều ghi trên địa phận nước ta tên COCINCINA, CAUCHINCHINA, COCHINCHINA, COCHIN-CHINE hoặc dạng tự nào đại khái như thế để nói lên đó là xứ GIAO CHỈ GẦN NƯỚC TẦN. Do đó, ta có thể đoán địa danh ấy đã xuất hiện từ khi nước ta gọi là quận Giao Chỉ bị nhà Tần đô hộ."Từ đầu thế kỷ 17, hai họ Trịnh-Nguyễn tranh giành quyền lực, phân chia nước ta thành hai vùng cai trị Đàng TrongĐàng Ngoài, lấy sông Gianh làm ranh giới phân ly. Trên bản đồ cũng như trong văn kiện, người Tây phương gọi Đàng Ngoài là TUNQUYN (hoặc nhiều dạng tương tự như TUMQUYN, TUNKIN, TONGKING, TONKIN...) tức lấy tên thủ đô ĐÔNG KINH để gọi bao quát cả Đàng Ngoài. Còn Đàng Trong thì họ vẫn dùng tên cũ COCINCINA mà gọi. Đàng Trong dưới thời Đắc Lộ (Từ điển Việt-Bồ-La) rộng từ sông Gianh tới núi Đá Bia ở dinh Phú Yên. Trên một thế kỷ sau – thời của Bỉ Nhu với Tự Vị An Nam La Tinh –, địa danh COCINCINA lại chỉ thêm phần đất phương nam rất rộng lớn. Phần Nam Bộ xưa được mệnh danh là xứ Đồng Nai. Năm 1698, xứ Đồng Nai được thiết lập phủ huyện. Phủ GIA ĐỊNH tồn tại suốt từ đó đến năm 1800 và bao gồm toàn thể đất Nam Bộ. (...) Lại từ sau 1885, khi Pháp đã chiếm hết Việt Nam, Pháp chia cắt nước ta thành ba khúc và mệnh danh:TONKIN là BẮC KỲANNAM là TRUNG KỲCOCHINCHINE là NAM KỲ"Cả ba địa danh Đông Kinh, An Nam, Giao Chỉ (gần) Tần đã bị Tây ngữ hóa và đặt tên cho những phần đất chẳng ăn nhằm gì với ý nghĩa của nguyên ngữ."